

Lời tác giả: Bài nầy được viết theo lời yêu cầu của một Exluro và không nhằm cố vấn hoặc cung cấp cho độc giả chi tiết về phương cách đầu tư trên thị thường chứng khoán. Thảo luận dưới đây chỉ dựa trên các nguyên tắc căn bản của kinh tế học mà bất kỳ cuộc đầu tư thành công nào trên thị trường tài chánh cũng phải phù hợp với các nguyên tắc nầy. Vì đầu tư chứng khoán có nhiều rủi ro, độc giả nên nghiên cứu cẩn thận trước khi đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi mà người ta có cơ hội để cải tiến tình trạng tài chánh của chính mình để tạo cho mình và gia đình được độc lập về tài chánh, đặc biệt là lúc về hưu. Nếu biết đầu tư thì thị trường tài chánh là nơi mà người ta có thể tạo nên một gia tài kế xù. Ngược lại, nếu không biết cách đầu tư người ta có thể bị vỡ nợ và phá sản, tạo ra những thảm cảnh cho gia đình. Trước khi thảo luận vấn đề đầu tư trên thị trường chứng khoán, ta cần biết chút ít về thị trường nầy.
.
-
Thị trường Chứng khoán (Stock Markets)
Thị trường chứng khoán (còn được gọi là thị trường cổ phần) là một thị trường trong đó những cổ phần (stock shares, những phần hùn vốn trong các công ty) được phát hành và mua bán trên các thị trường trao đổi (exchange markets) hoặc thị trường không theo đơn đặt hàng (over-the-counter markets). Đây là một trong những phần quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường vì nó giúp cho các công ty mượn vốn. Nó cũng cung cấp cho các nhà đầu tư một phần hùn trong một công ty và tiềm năng có lợi dựa trên hoạt động trong tương lai của nó. Có hai loại cổ phần, cổ phần phổ thông (common stocks), và cổ phần ưu đãi (preferred stocks). Trong khi cả hai loại cổ phần cung cấp cho các nhà đầu tư một phần làm chủ công ty, cổ phần phổ thông chỉ cho phép các cổ đông quyền bỏ phiếu các thành phần lãnh đạo của công ty. Mặc dù sở hữu chủ của cổ phần ưu đãi không có quyền biểu quyết, các cổ phần nầy được gọi là cổ phần ưu đãi vì sở hữu chủ của nó được ưu tiên trả tiền trước các cổ đông phổ thông.
Có hai loại thị trường chứng khoán: thị trường sơ cấp (primary market) và thị trường thứ cấp (thứ hai, secondary market). Thị trường sơ cấp là nơi cổ phần được bán lần đầu tiên bởi một công ty trong đợt bán cổ phần lần đầu cho công chúng (initial public offering, IPO). Thị trường thứ cấp là nơi mà các nhà đầu tư mua cổ phần từ các nhà đầu tư khác chứ không phải từ đợt IPO của một công ty. Các sở trao đổi quốc gia - chẳng hạn như Sở Trao đổi Chứng khoán New York (NYSE) và Hiệp hội Các nhà Phân phối Chứng khoán Quốc gia với Hệ thống Ghi giá Tự động (NASDAQ) là thị trường thứ cấp. Xin lưu ý là trong bất kỳ thị trường thứ cấp nào, số tiền bán cổ phần được trả thẳng cho nhà đầu tư chứ không phải trả cho công ty phát hành cổ phần và phần lớn các cổ phần được mua và bán trên thị trường thứ cấp. Thật vậy, khi bạn đặt mua cổ phần trên một thị trường chứng khoán, chẳng hạn như NYSE, bạn mua cổ phần của một nhà đầu tư khác chứ không phải từ công ty của cổ phần mà bạn đang mua. Chẳng hạn, Dũng mua 100 cổ phần Duke Energy (DUK) trên thị trường thứ cấp và anh ta trả 90 Mỹ-kim cho một cổ phần. Trong trường hợp này, anh ta mua cổ phần này từ một nhà đầu tư khác chứ không phải từ Công ty Duke Energy. Nhà đầu tư bán 100 cổ phần Duke Energy sẽ nhận được $9,000 Mỹ kim, và Công ty Duke Energy sẽ không nhận được gì cả. Lần duy nhất một công ty nhận tiền từ việc mua cổ phần là khi công ty đó bán cổ phần qua một đợt IPO hoặc bán cổ phần đã mua lại trước đó.
Khi mua một cổ phần, nhà đầu tư hy vọng sẽ kiếm được cổ tức (dividend) và (hoặc) lợi nhuận tư bản (capital gain). Nhà đầu tư nhận được lợi nhuận tư bản khi cổ phần của họ được bán với giá cao hơn giá mua. Họ cũng nhận được khoản cổ tức khi công ty chia một phần lợi nhuận cho các cổ đông theo số cổ phần mà họ làm chủ. Ví dụ, năm ngoái Dũng mua 1000 cổ phần của Công ty Intel (INTC) với giá $20.00 Mỹ kim mỗi cổ phần. Sáng nay, ông bán 1000 cổ phần Intel với giá $25.00 Mỹ kim mỗi cổ phần. Kết quả là, tổng số lợi nhuận tư bản của ông là $5,000.00[($25.00 - $20.00) x 1000 cổ phần = $ 5,000.00]. Ngoài ra, Công ty Intel cũng trả cổ tức mỗi tam cá nguyệt cho các cổ đông của mình với cổ tức là $0.225 mỗi cổ phần nếu cổ phần được giữ khi công ty Intel chia cổ tức. Vì vậy trong năm khi Dũng giữ 1,000 cổ phần của Intel, ông kiếm được $900.00 Mỹ kim cổ tức.[i]
2. Đầu Tư Trên Thị Trường Chứng Khoán
Dùng các con số thống kê trong bảng dữ kiện của Federal Reserve ở St. Louis (FRED), Giáo sư Aswath Damodaran thuộc đại học Nữu Ước tính ra là trong giai đoạn 1962-2012, lợi suất trung bình của cổ phần (S & P 500), trái phiếu dài hạn (ngân khố phiếu 10 năm) và công khố phiếu 3 tháng, theo thứ tự, là 11.10%, 7.19% và 5.17%.[ii] Cổ phần (stocks) có lợi suất cao nhất vì đây là khoản đầu tư có nhiều rủi ro nhất trong ba loại đầu tư. S & P 500, (Standard & Poor's 500), là một chỉ số chứng khoán dựa trên cổ phần của 500 công ty hàng đầu được mua bán trên thị trường chứng khoán Hoa Kỳ. Chỉ số S & P 500 được dùng để tượng trưng cho thị trường chứng khoán Hoa Kỳ và được công bố hằng ngày trên các phương tiện truyền thông.
Ngoài chỉ số chứng khoán như S & P 500, trên thị trường chứng khoán có hằng ngàn cổ phần cá nhân (individual stocks) như Bank of America (BAC), Iternational Business Machines (IBM) và Apple Inc. (AAPL) được mua bán hằng ngày. Đôi khi, lợi suất của một cổ phần cá nhân có thể tăng cao đáng kể so với lợi suất chỉ số S & P 500. Ví dụ: từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 26 tháng 3 năm 2013, cổ phần của Netflix, Inc. tăng 108%. Do đó, một câu hỏi cần đặt ra: Chúng ta có thể làm giàu nhanh chóng bằng cách đầu tư vào các cổ phần cá nhân như Netflix (NFLX) hoặc Apple (AAPL) không?
Những người say mê mua bán chứng khoán trả lời rằng "có", nhưng ý tưởng làm giàu nhanh chóng không phù hợp với nguyên tắc căn bản của kinh tế học: Mỗi nhà đầu tư đều cố gắng tối đa hóa lợi nhuận. Thật vậy, nếu Dũng và Diễm có một cách đầu tư tối đa hóa được lợi nhuận của họ, thì chúng ta và mọi người khác cũng có thể làm như thế. Lý do là vì mỗi nhà đầu tư tận dụng hết khả năng của mình để chọn những cổ phần sanh lợi nhiều nhất để tối đa hóa lợi nhuận. Vấn đề khó khăn là trong bất kỳ một thời điểm nào, không ai có thể biết chắc chắn cổ phần nào sanh lợi nhiều nhất trong tương lai. Trên thực tế, khi ta mua cổ phần của một công ty trên thị trường chứng khoán, thì phải có một người khác bán cổ phần này cho chúng ta qua các nhà môi giới. Vì vậy, nếu bạn nghĩ rằng NETFLIX là một "cổ phần nóng hổi" và bạn quyết định mua 100 cổ phần của công ty này, thì trên thị trường chứng khoán phải có một người nào đó muốn loại bỏ "cổ phần nóng hổi" này bằng cách bán 100 cổ phần đó cho bạn (qua một nhà môi giới). Câu hỏi cần đặt ra là: "Liệu NETFLIX có phải là cổ phần sanh lợi nhuận cao nhất trong dài hạn hay không?" Câu trả lời là: "Không ai biết chắc." Thật vậy, nếu đúng NETFLIX là cổ phần có lợi nhất, không ai bán 100 cổ phần cho bạn. Tất nhiên, một số "chuyên gia tài chính" có thể đề nghị "MUA" cổ phần này, nhưng điều đó không bảo đảm rằng trong tương lai bạn sẽ kiếm được lợi nhuận thật cao từ cổ phần đó. Điều này phù hợp với lý thuyết thị trường hữu hiệu. Nguyên tắc chính của lý thuyết này là giá của một tài sản phản ảnh mọi tin tức có sẵn về tài sản đó. Vấn đề là mọi người đều có được cùng một tin tức. Do đó, trong trường kỳ thật rất khó - nếu không phải là không thể được - để lựa các cổ phần luôn sinh lợi cao hơn thị trường chứng khoán (được biểu diễn qua chỉ số S & P 500).
Vậy chúng ta có nên đầu tư vào thị trường chứng khoán không? Vâng, chắc chắn là nên. Vì đây không phải là một bài cố vấn tài chính cá nhân, đồng thời các tiệm sách (hoặc Amazon) cũng có bán một số sách rất hay về đầu tư trên thị trường chứng khoán mà các bạn có thể tìm đọc[iii]. Ở đây tôi không có ý cung cấp cho độc giả phương cách chi tiết về đầu tư. Thay vào đó, bài thảo luận nầy chỉ dựa trên các nguyên tắc căn bản của kinh tế học. Tôi tin rằng bất cứ một cuộc đầu tư chứng khoán thành công nào cũng phải phù hợp với các nguyên tắc sau đây:
-
Tiêu xài ít hơn những gì chúng ta kiếm được và tiết kiệm.
Muốn đầu tư, trước tiên, chúng ta phải có tiền. Để có tiền đầu tư chúng ta phải tiết kiệm bằng cách chi tiêu ít hơn những gì chúng ta làm ra. Cũng như các tài nguyên khác, tiền rất khan hiếm, và do đó, mọi người sẵn sàng trả tiền lời cho bạn nếu bạn cho họ mượn tiền của bạn. Một điều tuyệt vời về việc cho vay tiền là lãi suất gộp. Albert Einstein, một khoa học gia hàng đầu của thế kỷ 20, từng nói: "Lãi suất gộp là kỳ quan thứ tám của thế giới. Người hiểu được nó, hưởng được nó ... người không hiểu nó..., trả giá cho nó."[iv] Để làm sáng tỏ điểm này, chúng ta hãy giả định rằng Diễm muốn tiết kiệm tiền để nghỉ hưu. Cô tốt nghiệp đại học có việc làm sau khi tốt nghiệp. Ngày nay, Diễm được 25 tuổi và cô ta có $15,000 Mỹ kim trong trương mục chi phiếu của mình. Cô quyết định bỏ $5,500 Mỹ kim vào trương mục IRA. Để đơn giản hóa, giả sử rằng IRA của Diễm sanh lợi trung bình là 10% mỗi năm, và lãi suất gộp được tính hàng năm (nghĩa là mỗi năm một lần). Sau 40 năm, Diễm sẽ nghỉ hưu ở tuổi 65, và số tiền trong trương mục IRA của cô sẽ là $ 248,926.00. Tức là, đầu tư $ 5,500 Mỹ kim hôm nay Diễm sẽ nhận được số tiền lãi là $243,426.00 Mỹ kim (cộng thêm khoản tiền vốn cô là 5,500 Mỹ kim) sau 40 năm, nhờ sức mạnh của lãi suất gộp[v]. Một điểm quan trọng mà người đầu tư nên nhớ: Nếu ta bắt đầu tiết kiệm và đầu tư sớm chừng nào, thì ta càng khá hơn chừng ấy.[vi]
2. Đừng vay tiền để đầu tư.
Đầu tư là cách tốt nhất để làm giàu trong tương lai. Nếu được thực hiện đúng cách, đầu tư vào thị trường chứng khoán có thể giúp ta trở thành triệu phú khi về hưu. Một số nhà đầu tư có thể thu được lợi nhuận lớn nhanh chóng trong thời kỳ thị trường chứng khoán hưng thịnh, và họ nghĩ rằng mình có thể kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách vay mượn để đầu tư vào cổ phần. Trên thực tế, đã có người làm như thế và bị lỗ nặng, thậm chí có người bị phá sản.
Một cách mượn tiền để đầu tư vào cổ phần được gọi là "buy on margin" hay "trading margin". Nghĩa là, nếu bạn có một trương mục với nhà môi giới chứng khoán (stock brokers), người (hoặc cơ quan) môi giới của bạn có thể cho phép bạn đầu tư nhiều hơn số tiền mà bạn thực sự có trong trương mục của bạn. Khoản tiền thêm này (tiền mượn) được gọi là "margin", là tiền mà nhà môi giới cho bạn mượn. Nếu thị trường chứng khoán tiếp tục gia tăng và nhờ đó bạn kiếm được tiền từ khoản "margin" đó thì thật là tuyệt; nhưng nếu thị trường bị sụp đổ và bạn bị lỗ bạn phải trả tiền cho nhà môi giới tiền mà bạn mượn. Điều này có nghĩa là bạn đã mất gấp đôi: tiền của chính bạn và số tiền bạn mượn. Vì không ai biết khi nào thị trường chứng khoán sụp đổ, việc "buy on margin" là một chiến thuật rất nguy hiểm. Một cuộc sụp đổ thị trường như trong giai đoạn 2008-2009, có thể làm bạn tiêu tan nếu bạn mua cổ phần "on margin" vì khi bạn mất tiền mượn, họ yêu cầu bạn phải trả tiền lại và nhà môi giới của bạn có thể thanh toán trương mục đầu tư của bạn mà không cần bạn cho phép. Đó là lý do tại sao vay tiền để đầu tư là một ý tưởng không hay. Vì vậy, điều tối quan trọng là phải nhớ rằng chúng ta chỉ nên đầu tư vào thị trường chứng khoán số tiền mà chúng ta có thể thua lỗ mà không phải bị phá sản.
3. Rủi ro nhiều mang đến phần thưởng cao.
Trong thế giới đầu tư, người ta biết rằng trung bình lợi nhuận từ cổ phần cao hơn lợi nhuận từ trái phiếu (bonds), và lợi nhuận từ trái phiếu cao hơn lợi nhuận từ chứng chỉ ký thác (certificates of deposit, CD). Lý do là các cổ phần có nhiều rủi ro hơn trái phiếu, trong khi đó chứng chỉ ký thác là tài sản tài chính an toàn nhất trong ba loại tài sản. Cổ phần là tài sản có nhiều rủi ro nhất trong số ba tài sản vì giá của nó dao động rất nhiều. Trong một năm tốt đẹp, chỉ số S & P 500 có thể tăng hơn 30%, trong khi đó vào một năm xấu nó có thể giảm hơn -36%. Hơn nữa, chỉ số này có thể giảm xuống liên tiếp trong vài ba năm. Chẳng hạn, trong thời kỳ “bong bóng liên mạng” vở (1999-2001), chỉ số S & P 500 giảm xuống -9.08% vào năm 2000, -11.85% vào năm 2001, và -21.97% năm 2002. Còn về các cổ phần cá nhân, sự dao động càng tệ hơn. Vào ngày 31 tháng 3 năm 2000, một cổ phần của Cisco Systems Inc. (CSCO) được bán với giá $77.31 Mỹ kim. Đến ngày 28 tháng Chín năm 2001, nó chỉ được bán với giá là $12.18, giảm 84.25%. Trong cùng thời kỳ đó, nhiều công ty dot-com, như Pets.com (một cửa hàng cung cấp thực phẩm cho thú vật trên liên mạng), Webvan (cửa hàng tạp hóa liên mạng) và Worldcom (một nhà cung cấp dịch vụ điện thoại viễn liên và liên mạng) đã bị phá sản. Nếu các nhà đầu tư bỏ hết tiền vào một trong những cổ phần đó, họ sẽ mất hết tiền.
Khi đầu tư vào trái phiếu hoặc chứng chỉ ký thác (CD), đêm về bạn có thể ngủ ngon hơn, nhưng với một cái giá. Như đã đề cập trước đây, tỷ lệ lợi nhuận trung bình của trái phiếu thấp hơn nhiều so với chứng khoán. Lãi suất của chứng chỉ ký thác (CD) thậm chí còn thấp hơn nhiều. Ví dụ, mức lãi suất trung bình của chứng chỉ ký thác 6 tháng từ tháng 8 năm 2009 đến tháng 11 năm 2013 thấp hơn 0.50%. Nói tóm lại, có sự bù trừ giữa rủi ro và lợi nhuận trong vấn đề đầu tư. Đó là, rủi ro càng cao thì tỷ số lợi nhuận càng cao, và rủi ro càng thấp thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp hơn.
4. Đừng bao giờ để tất cả các quả trứng của bạn trong một cái giỏ: đa sản hóa.
Tại sao? - Bởi vì nếu bạn để tất cả các quả trứng của bạn vào một cái giỏ, và nếu cái giỏ bị rơi hoặc bị đánh cắp, tất cả sẽ bị mất. Điều này rất đúng với các cuộc đầu tư. Nếu bạn để hết tiền của bạn vào một cổ phần cá nhân, sau đó công ty của cổ phần bị phá sản, tất cả số tiền của bạn sẽ mất. Để giảm cái rủi ro này, các nhà đầu tư nên đa sản hóa đầu tư bằng cách mua và giữ nhiều tài sản khác nhau.
Trên thị trường tài chính, đa sản hóa có nghĩa là đầu tư vào một số tài sản tài chính không liên quan chặt chẽ với nhau như trái phiếu, cổ phần và tiền tệ. Đối với cổ phần, nhà đầu tư nên có một chương trình đầu tư bao gồm cổ phần của nhiều công ty hoạt động trong các ngành khác nhau (ví dụ như năng lượng, tài chánh, vận tải, sản xuất, bất động sản và y tế...). Một chương trình đầu tư đa sản có thể giảm rủi ro vì nếu có một số cổ phần sinh lợi kém, các cổ phần khác sẽ sinh lợi nhiều hơn. Chương trình đầu tư đa sản này chắc chắn sẽ làm giảm sự dao động của giá cổ phần và giúp các nhà đầu tư đạt được tỷ lệ lợi nhuận trung bình của thị trường, tránh được sự mất mát có thể xảy ra do sự sụp đổ của cổ phần cá nhân. Một ví dụ điển hình về sự sụp đổ của một cổ phần cá nhân là cổ phần của Enron Corporation. Enron là một công ty năng lượng, hàng hóa và dịch vụ lớn ở Houston, Texas, sử dụng khoảng 20,000 nhân viên. Trong sáu năm liên tiếp, tập san Fortune đặt Enron Corporation vào danh sách các "Công ty sáng tạo nhất của Mỹ". Vào tháng 8 năm 2000, giá cổ phần của Enron lên đến mức tối đa là $90 Mỹ kim mỗi cổ phần. Vào cuối tháng 11 năm 2001, sau khi kế hoạch lừa đảo kế toán của Enron - giấu đi những thiệt hại về tài chính trong hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác của công ty - đã bị tiết lộ, giá mỗi cổ phần của công ty nầy giảm xuống dưới $1.00 Mỹ kim. Vào ngày 2 tháng 12 năm 2001, Công ty Enron đã đệ đơn xin phá sản. Sự sụp đổ của Enron ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng ngàn nhân viên và người đầu tư. Cựu nhân viên Enron làm chứng trước Quốc hội nói rằng do sự sụp đổ của công ty nầy họ hầu như không còn gì, trong khi đó nếu Enron không bị phá sản họ có thể nghỉ hưu với một số tiền từ $700,000 đến 2 triệu Mỹ kim với cổ phần Enron.
Một bài học rút ra từ sự sụp đổ của Enron là các nhà đầu tư không nên đặt tất cả tiền của họ vào một hoặc vài cổ phần cá nhân. Nếu công ty mà bạn làm việc cung ứng cho nhân viên chương trình nghỉ hưu tài trợ dựa trên số cổ phần công ty mà người nhân viên mua, và nếu bạn có lý do để tin rằng đây là một công ty tốt - bạn có thể tham gia chương trình để tận dụng lợi thế của chương trình tài trợ nầy. Một hạn chế thông thường của chương trình này là nhân viên không được phép bán cổ phần mà họ mua trong một khoảng thời gian giữ cổ phần được quy định (thường là hai hoặc ba năm). Trong trường hợp này, khi thời hạn chờ đợi chấm dứt, bạn nên bán cổ phần công ty mà bạn đã mua và dùng tiền bán để đầu tư vào một chương trình đầu tư đa sản gồm nhiều cổ phần khác nhau và trái phiếu. Như thế chắc chắn bạn tránh được cái nguy cơ là đặt tất cả hoặc hầu hết các quả trứng của bạn vào một giỏ.
Đối với các nhà đầu tư cá nhân, thay vì chọn nhiều cổ phần cá nhân, cách tốt hơn để đa sản hóa là đầu tư vào các quỹ hỗ tương (mutual funds), gồm nhiều cổ phần cá nhân. Một lý do chính của sự lựa chọn này là các nhà đầu tư cá nhân (còn được gọi là các nhà đầu tư lẻ) không có nhiều tiền để mua cổ phần của nhiều công ty. Ngoài ra, họ không được huấn luyện hoặc chuyên môn trong việc chọn lựa các cổ phần sinh lợi cao. Trên thực tế, không ai -- kể cả các chuyên gia tài chính -- có thể chắc chắn được điều gì sẽ xảy ra với các cổ phần cá nhân hoặc ngay cả thị trường chứng khoán trong tương lai gần. Giá cổ phần thường bị ảnh hưởng bởi các sự kiện bất ngờ như các cuộc tấn công khủng bố, chiến tranh, thiên tai, và các biến cố chính trị trong nước và trên thế giới. Chắc chắn là có một số người như nhà tỷ phú Warren Buffett có sở trường đặc biệt để chọn những cổ phần sanh lợi cao nhất, nhưng nếu bạn không phải là một người đặc biệt như thế thì các quỹ hổ tương sẽ tốt hơn cho bạn để đạt được tỷ suất lợi nhuận trung bình của thị trường mà trong trường kỳ các cổ phần cá nhân khó có thể vượt qua.
Có hai loại quỹ hỗ tương, quỹ hỗ tương quản trị (managed funds) và quỹ chỉ số (index funds). Các quỹ hỗ tương quản trị được điều hành bởi một người hoặc một nhóm người quản lý. Quỹ chỉ số (còn gọi là quỹ thụ động) được điều hành một cách thụ động, có nghĩa là các quỹ nầy được cho tự động phản ảnh một chỉ số như chỉ số S & P 500, bao gồm cổ phần của 500 công ty hàng đầu của Hoa Kỳ. Nghĩa là, nếu bạn đầu tư vào quỹ chỉ số S & P 500, tiền của bạn sẽ tự động được đầu tư tương ứng vào các cổ phần cá nhân dựa trên tỷ lệ phần trăm số vốn thị trường của chúng đại diện trong chỉ số. Ví dụ, nếu bạn đầu tư $100 Mỹ kim vào quỹ chỉ số S & P 500, $1.62 sẽ được dùng để mua cổ phần của General Electric Co. (GE) vì GE đại diện 1.62% của chỉ số S & P 500.[vii]
Ngược lại, các quỹ hỗ tương quản trị được điều hành bởi các nhà quản lý, những người nầy cố gắng chọn các cổ phần có hiệu năng cao để vượt trên hiệu năng của thị trường chứng khoán. Trong một vài giai đoạn nhất định, một quỹ quản trị có thể sinh lợi khá hơn quỹ chỉ số như S & P 500. Tuy nhiên, các nhà đầu tư bỏ tiền vào các quỹ hỗ tương quản trị phải trả chi phí cao hơn so với quỹ chỉ số. Về lâu dài, ít có quỹ quản trị nào có thể có hiệu năng cao hơn thị trường. Ví dụ, tính đến ngày 12/11/2013, tỷ suất lợi nhuận hàng năm trong một năm, năm năm và mười năm của quỹ Winsor của Vanguard (VWNDX), một quỹ được quản trị tích cực, là 36.61%, 19.82% và 7.27%, trong khi đó tỷ số lợi nhuận tương ứng của quỹ Vanguard 500 (VFIAX) theo thứ tự là 30.25%, 17.60% và 7.68%. Các con số này cho thấy rằng trong ngắn hạn (một năm hay năm năm), quỹ Windsor được quản trị của Vanguard vượt trội hơn quỹ chỉ số S & P 500. Tuy nhiên, trong dài hạn (10 năm), quỹ chỉ số S & P 500 sinh lợi khá hơn quỹ Windsor được quản trị tích cực với 5.34%. Cần lưu ý rằng tỷ số chi phí của chỉ số Vanguard 500 là 0.05% một năm, trong khi tỷ số chi phí của quỹ Windsor lớn hơn 8 lần ở mức 0.41%. Hàng triệu nhà đầu tư và kinh tế gia tìm thấy rằng đầu tư vào các quỹ chỉ số hấp dẫn vì nhiều lý do. Trước hết, đây là một cách đơn giản và dễ dàng để phân phối và đa sản hóa tài sản. Kế đến, đầu tư vào chỉ số ít tốn kém hơn so với đầu tư vào các quỹ hỗ tương quản trị bởi vì chi phí của các khoản đầu tư này thấp hơn nhiều so với chi phí của qũy quản trị. Hơn nữa, chỉ số loại bỏ mối quan ngại về phẩm chất quản trị (ví dụ: lỗi của người quản lý trong việc chọn, mua hoặc bán cổ phần). Cuối cùng, về lâu dài, các quỹ chỉ số rất có thể sanh lợi khá hơn các quỹ được quản trị tích cực. Trên thực tế, quan sát các dữ kiện về các quỹ tương hỗ từ tháng 1 năm 1972 đến tháng 12 năm 2006, Giáo sư Jeremy Siegel của Trường Kinh doanh Wharton nhận thấy rằng hơn 65% các quỹ hỗ tương được quản lý tích cực sinh lợi kém hơn thị trường (chỉ số S & P 500).
Ngày nay, thị trường tài chính của Hoa Kỳ chỉ bằng một nửa tư bản hóa cổ phần của thế giới. Do đó, điều quan trọng cần lưu ý là chương trình đầu tư đa sản không những chỉ bao gồm nhiều loại cổ phần và trái phiếu trong nước mà còn phải bao gồm cả các cổ phần ngoại quốc. Chỉ đầu tư vào thị trường Mỹ là bỏ qua một phần lớn thị trường tài chính của thế giới. Do đó, một chương trình đầu tư đa sản lý tưởng nên bao gồm toàn thị trường chứng khoán Mỹ, toàn thị trường chứng khoán quốc tế và toàn thị trường trái phiếu Mỹ. Tỷ lệ mỗi thị trường tùy theo tuổi và khả năng chịu rủi ro của từng nhà đầu tư. Ví dụ: chương trình đầu tư với rủi ro cao có thể gồm 20% tổng số chỉ số trái phiếu của Hoa Kỳ, 60% tổng số chỉ số thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ và 20% tổng chỉ số chứng khoán quốc tế. Mặt khác, chương trình đầu tư với rủi ro thấp có thể bao gồm 80% tổng chỉ số trái phiếu của Hoa Kỳ, 15% tổng chỉ số thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ và 5% tổng chỉ số quốc tế. Cuối cùng, chương trình đầu tư với rủi ro trung bình nằm giữa các chương trình với rủi ro thấp và chương trình đầu tư với rủi ro cao. Chương trình đầu tư với rủi ro cao dành cho giới trẻ vì họ có thời gian dài và trương mục đầu tư với rủi ro thấp dành cho các người lớn tuổi. Khi già đi, người ta nên điều chỉnh chương trình đầu tư của mình nghiên về nhiều trái phiếu và ít cổ phần hơn để giảm thiểu rủi ro.
Đầu tư lâu dài.
Vì giá cổ phần dao động trong ngắn hạn, đầu tư vào thị trường chứng khoán đòi hỏi thời gian. Các con số lấy ra từ Bảng thống kê của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa kỳ ở St. Louis cho thấy từ 1928 đến 2012, tỷ số lợi nhuận trung bình hàng năm của chỉ số S & P 500 trong một năm dao động từ -43.84% (năm 1931) đến 52.56% ( vào năm 1954). Tỷ số lợi nhuận trung bình của chỉ số này trong suốt thời kỳ là 11.26%, trong khi đó tỷ số trung bình của các giai đoạn 1962-2012 và 2002-2012 theo thứ tự là 11.10% và 8.71%. Rõ ràng là nếu bạn đầu tư càng lâu thì cơ hội kiếm tiền càng lớn.
Người ta dể dành tiền và đầu tư cho các mục tiêu đặc biệt, chẳng hạn như bỏ một số tiền xuống để mua một chiếc xe hơi hoặc một ngôi nhà, giáo dục cấp đại học cho con em của họ, và về nghỉ hưu. Mỗi mục tiêu đặc biệt đều có thời hạn riêng. Nếu bạn có một số tiền và bạn cần phải chi tiêu số tiền đó trong vài tháng tới (hoặc thậm chí vài năm), bạn không nên đầu tư số tiền đó vào thị trường chứng khoán. Thay vào đó, bạn nên đặt số tiền mà bạn vất vả để làm ra đó trong trương mục chi phiếu (checking accounts), trương mục tiết kiệm (savings accounts) hoặc trương mục thị trường tiền tệ (money market funds) để bạn có thể tránh rủi ro ngắn hạn của thị trường tư bản. Ngay cả khi khoảng thời gian là 5 năm, người ta không nên đầu tư vào cổ phần vì năm năm không dài đủ để bảo đảm chắc chắn là có lợi nhuận trên thị trường chứng khoán.[viii] Đối với thời hạn năm năm, đầu tư vào trái phiếu (bonds) đáo hạn trong năm năm thì an toàn hơn bởi vì, vào ngày đáo hạn, bạn chắc chắn sẽ lấy lại tiền vốn của bạn cộng thêm tiền lãi.
Người ta thường đồng ý rằng muốn đầu tư một cách thành công trên thị trường chứng khoán, ta nên có một chương trình đầu tư đa sản và giữ nó trong trường kỳ; nhưng trường kỳ là gì? Có phải đó là khoảng thời gian năm năm, mười năm hoặc bất cứ một khoảng thời gian nào khác? Quan sát dữ kiện về chỉ số S & P 500 trong khoảng thời gian từ 01-01-1982 đến 01-01-2013, ta thấy rằng dựa trên căn bản luân phiên, S & P 500 giảm 7 lần trong 27 giai đoạn 5 năm, 2 lần trong 22 giai đoạn mười năm và 0 lần trong bất cứ khoảng thời gian 15 năm nào. Sự phát hiện này đưa ra bằng chứng là nếu dùng lịch sử như một sự hướng dẫn, thì việc giữ chương trình đầu tư đa sản trong vòng ít nhất 15 năm chắc chắn (100%) sẽ đạt được tỷ số sanh lợi trung bình dương (positive, nghĩa là chắc chắn có lời).
Do đó, cha mẹ của một em bé sơ sinh có thể bắt đầu tiết kiệm dành cho nền giáo dục đại học của con mình hầu tận dụng thời gian 18 năm để đầu tư vào thị trường chứng khoán hầu có sẵn tiền khi đứa trẻ đến tuổi học đại học. Ví dụ, sau khi một đứa trẻ được sinh ra, nếu cha mẹ của đứa trẻ đầu tư ngay lập tức $ 400.00 mỗi tháng trong một quỹ hổ tương chỉ số phản ảnh chỉ số S & P 500, với lợi nhuận trung bình hàng năm là 8%, khi trẻ bắt đầu học đại học 18 tuổi, một khoản đầu tư như vậy có thể mang lại khoảng $179,761.00 Mỹ kim, đủ để trang trải học phí và lệ phí, và tiền ăn ở cho 4 năm học tại một trường đại học tiểu bang.
Còn về phần hưu trí, một người trẻ vừa mới tốt nghiệp đại học có một khoảng thời gian dài (40 năm trở lên) để tiết kiệm và đầu tư. Người này có thể theo một chương trình đầu tư đa sản với mực độ rủi ro cao (tức là 80% cổ phần và 20% trái phiếu) để thu lượm lợi nhuận cao từ thị trường chứng khoán. Khi sắp đến tuổi tuổi nghỉ hưu, theo nguyên tắc, người đầu tư nên điều chỉnh chương trình đầu tư của mình thiên về chương trình đầu tư với rủi ro thấp (có nhiều trái phiếu và ít cổ phần hơn) để tránh giá cổ phần sụt giảm đột ngột trên thị trường chứng khoán. Thí dụ tôi đưa ra trên đây cho thấy rằng một người trẻ bỏ tiền vào quỹ hưu trí đều đều và đầu tư lâu dài sẽ bảo đảm có đủ tiền để an hưởng những năm vàng son còn lại của cuộc đời còn lại.
Kết Luận
Mục đích của bài viết ngắn nầy là nhằm đưa ra những điểm căn bản về việc đầu tư trên thị trường chứng khoán dựa trên các nguyên tắc kinh tế: (1) Tiết kiệm (xài ít hơn tiền kiếm được) và đầu tư càng sớm càng tốt, (2) không nên vay tiền để đầu tư trên thị trường chứng khoán, (3) “Có gan thì làm giàu” (rủi ro nhiều mang đến phần thưởng cao), (4) đa sản hóa , và (5) Đầu tư dài hạn.
Một điểm rất quan trọng mà người đầu tư cần nhớ và áp dụng: “Nên mua rẻ và bán mắc” (Buy low and sell high). Điều nầy có nghĩa là ta không nên thanh toán (bán) chương mục đầu tư (investment portfolio) khi thị trường chứng khoán xuống dốc trầm trọng. Hãy bình tĩnh và đầu tư trong dài hạn. Sau một cuộc suy thoái, nền kinh tế sẽ phục hồi và phát triển. Thị trường chứng khoán sẽ ưu đãi những ai bình tĩnh và có can đảm cũng như kỷ luật để đầu tư lâu dài.
Những nguyên tắc đầu tư trên thị trường chứng khoán nêu trên xem ra rất đơn giản, nhưng thật ra rất khó cho nhiều người vì đầu tư chứng khoán đòi hỏi sự kiên nhẫn, kỷ luật, gan dạ để chờ đợi, và bền lòng vượt qua các cuộc thăng trầm kinh tế và nhất là giữ chương trình đầu tư trong trường kỳ, đặc biệt là “KHÔNG BAO GIỜ MUA MẮC VÀ BÁN RẺ!”
Nguyễn Văn Sáng (58)
[i] $0.225 x 1000 cổ phần x 4 tam cá nguyệt trong năm = $900.00. Cổ tức được trả bằng tiền mặt. Cổ đông có thể lựa chọn tái đầu tư cổ tức bằng cách mua cổ phần công ty.
[ii] Xem Aswath Damodaran (2013).
[iii] Chẳng hạn, xem Graham and Zweig, The Intelliget Investor (2003), and J. Siegel, Stocks for the Long Run (2007).
[iv] “Compound interest is the 8th wonder of the world. He who understands it, earns it; he who doesn't, pays it.”
[v] Về cách tính lãi suất gộp, xem: http://www.moneychimp.com/calculator/compound_interest_calculator.htm
[vi] Bài “Thời giờ là tiền bạc” tôi viết trước đây đã chứng minh điểm nầy. Xem https://www.exlurohaingoai.org/tho-i-gio-la-tie-n-ba-c
[vii] Dĩ nhiên là con số nầy sẽ thay đổi theo thời gian.
[viii] Đầu tư trên thị trường chứng khoán trong 5 năm có thể mang đến lợi nhuận, nhưng không có gì bảo đảm. Do đó, nếu sau năm năm mà bạn cần phải lấy số đầu tư nầy ra và nếu lúc đó thị trường chứng khoán xuống dốc thì bạn sẽ không có đủ tiền để tiêu xài như dự tính.
Đầu Tư Trên Thị Trường Chứng Khoán

MỤC LỤC
-Chúa có chọn Đức Giáo Hoàng không?
-Đức Giáo Hoàng Leo ‘là người lý tưởng để lãnh đạo Giáo Hội vào thời điểm này’
-Tư tưởng kinh tế của Karl Marx
-Tư tưởng kinh tế của Adam Smith
-Chỉ số Dow Jones, Nasdaq và S&P 500
-Tăng trưởng và phát triển kinh tế
-Tầm quan trọng của Tư tưởng và Hê thống kinh tế
-Bàn Về Thiết Hụt Ngân Sách Và Quốc Trái Hoa Kỳ.
-XÃ HỘI
-Judo - từ nhu thuật đến thể thao hiện đại
-Nhật ký của một linh hồn
-Những cách chửa trị dị thường nhất
-12 sự kiện mở đường thời Internet
-Tầm nhìn của một Thiên tài
-Làm thế nào để trở thành một Bác sĩ Y khoa?
-Làm sao để được khỏe mạnh
-Ngả lưng một thoáng bên đường
-Saigon niềm nhớ không tên-Góc kỷ niệm
-Người Mỹ khắc khổ
-Một sáng Chủ nhật
THƠ
Xem lại những bài đã đăng