

TƯ TƯỞNG KINH TẾ CỦA KARL MARX (1818 - 1883)
Trong quyển Phê Bình Về Chương Trình Gotha (Critique of the Gotha Program, 1875),
Karl Marx viết: "Mỗi người làm theo khả năng của mình, mỗi người hưởng theo nhu cầu của
mình". Marx hình dung một nền kinh tế trong đó các vấn đề khan hiếm chỉ có thể được giải
quyết bằng cách phân phối hoàn toàn của cải và lợi tức từ các địa chủ và nhà tư bản cho giới lao
động. Ông tuyên bố rằng công bình xã hội và bình đẳng kinh tế có thể đạt được khi xã hội được
tổ chức theo cách mà mọi người đều bình đẳng mặc dù có sự khác biệt về khả năng giữa các cá
nhân trong một xã hội.
Tư tưởng của Karl Marx đưa đến sự hình thành của chủ nghĩa cộng sản. Một chủ nghĩa được
thiết lập nhằm tạo nên sự bình đẳng giữa các đơn vị kinh tế xã hội, trong đó người dân không có
quyền tư hữu về tài sản và các phương tiện sản xuất, và do đó không có kẻ nghèo và người giàu
để tránh tình trạng “người bóc lột người” và sự khác biệt giai cấp trong xã hội. Tất cả tài sản là
của chung, đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Nghĩa là nhà nước có toàn quyền quyết định
trong việc sản xuất, phân phối sản phẩm và dịch vụ cho dân chúng cũng như ấn định giá
cả.
Về phía dân chúng, mọi người phải "làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu" mặc dù khả
năng của những người trong xã hội rất là khác biệt. Khẩu hiệu nầy có nghĩa là mỗi người trong
xã hội cộng sản phải làm hết sức theo khả năng của mình, nhưng tất cả mọi người đều hưởng
theo nhu cầu như nhau, không phân biệt khả năng hay trình độ học vấn. Thí dụ, một nhà sáng tạo
phải làm hết sức mình để phát minh và sáng tạo những sản phẩm tối tân chẳng hạn như điện
thoại thông minh hoặc phi cơ phản lực, trong khi đó một phu quét đường phải ra sức để làm cho
đường phố sạch sẽ. Tuy nhiên, theo Karl Marx, người sáng tạo cũng như phu quét đường chỉ
được hưởng theo nhu cầu như nhau. Thí dụ, mỗi người mỗi ngày cần một lít gạo để sống, thì nhà
sáng tạo cũng như phu quét đường mỗi người đều chỉ được nhà nước phát cho một lít gạo để
sống. Không có sự tưởng thưởng cho kẻ có tài và có công đóng góp rất nhiều cho xã hội; ngược
lại, người có khả năng đóng góp ít cho xã hội cũng được hưởng theo nhu cầu giống hệt người có
công rất nhiều.
Mới nghe qua, tư tưởng của Karl Marx có vẻ lý tưởng vì người dân trong nước không phải lo
lắng gì cả, họ chỉ làm theo khả năng của mình và được nhà nước phân phối đồng đều các nhu cầu
cần thiết. Dù người không có tài cán gì cũng được hưởng theo nhu cầu. Nhưng nghĩ cho kỹ, đây
là những tư tưởng hoang đường, trái với định luật thiên nhiên và bản năng vị kỷ của con người.
Theo lẽ tự nhiên, không có một nhân tài nào chịu bỏ công khó nghiên cứu, học hỏi và đem hết tài
năng để sáng tạo mà chỉ hưởng theo nhu cầu giống hệt như người phu quét đường. Chính vì thế
chúng ta chỉ thấy hầu hết các sản phẩm và dịch vụ tối tân như điện thoại thông minh, máy điện
toán cá nhân, phương tiện truyền thông như Facebook … đều được phát minh và chế tạo từ các
quốc gia tự do với một nền kinh tế thị trường ưu đãi tài năng.
Karl Marx gọi người chủ nhà máy là "nhà tư bản" và khẳng định rằng các nhà tư bản luôn phải
khai thác công nhân để kiếm lời. Trong quyển sách nổi tiếng của ông, Tuyên ngôn Cộng sản
(The Communist Manifesto, đồng tác giả với Friedrich Engels, xuất bản lần đầu tiên vào năm
1848), Marx đưa ra các nguyên tắc để chủ nghĩa cộng sản tiến triển, và kêu gọi sự đoàn kết của
công nhân trên toàn thế giới. Ông nói rằng lịch sử là một loạt đấu tranh giữa các nhà tư bản và
giai cấp vô sản, dẫn đến một cuộc cách mạng đẫm máu và cuối cùng đưa đến một xã hội không
giai cấp. Ông tin rằng trong nền kinh tế thị trường chỉ có những nhà tư bản trả lương cho người
lao động với mức lương tối thiểu mới có thể sống sót. Đó là vì ngay cả khi doanh nghiệp tăng
trưởng và sự sản xuất gia tăng, tiền lương của công nhân sẽ không bao giờ tăng cho đến khi xảy
ra cuộc nổi dậy bạo động để lật đổ các nhà tư bản và chiếm lấy các nhà máy. Marx khẳng định
rằng sự kiện đó sẽ xảy ra khi mỗi ngành kỹ nghệ còn có một nhà độc quyền, và theo ông điều
nầy không thể tránh được trong một nền kinh tế thị trường.
Cũng nên lưu ý rằng trong công trình nghiên cứu của ông, Marx tập trung chính yếu vào việc
phân tích và phê bình chủ nghĩa tư bản. Ông không nói rõ làm thế nào để đạt được sự bình
đẳng kinh tế, công bằng xã hội, và xã hội vô giai cấp mà ông đã hình dung. Tuy nhiên Marx
nói rằng chủ nghĩa tư bản chứa đựng những hạt giống tự diệt và chủ nghĩa cộng sản là kết quả tất
yếu của diễn trình tiến hóa, nghĩa là chủ nghĩa đế quốc, rồi đến chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã
hội và (sau cùng là) chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, Marx đã không bao giờ phân biệt một cách
rõ ràng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Marx viết rất nhiều về nguyên nhân của
quá trình này trong cuốn sách của ông có tựa đề, Tư Bản, Phê Bình về Kinh tế Chính trị
(Capital: A Critique of Political Economy, 1867). Các phần chính yếu của tư tưởng kinh tế của
Marx là lý thuyết lao động về giá trị, tỷ suất lợi nhuận tiệm giảm và sự gia tăng tập trung tài sản.
Tóm lại, trong khi chỉ trích chủ nghĩa tư bản một cách rất rộng rãi, Marx đã không cung cấp cho
các chính quyền cộng sản bất kỳ một hướng dẫn cụ thể nào để đạt được mục tiêu cuối cùng của
chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, tư tưởng của Marx đã trở thành nền tảng cho các nhà lãnh đạo
chính trị như Vladimir Ilyich Lenin và Mao Trạch Đông, những người đã từng thống trị khối
cộng sản, gồm khoảng một phần ba dân số thế giới trong thế kỷ 20.
Lịch sử cho thấy rằng nền kinh tế chỉ huy được thành lập và áp dụng trong các nước theo chủ
nghĩa cộng sản có những khuyết điểm nghiêm trọng. Một nhược điểm lớn là, theo hệ thống kinh
tế này, đất nước cộng sản đã trở thành một công ty khổng lồ. Không có một cá nhân hoặc nhóm
người nào có thể kiểm soát hoặc điều khiển một cách hữu hiệu một công ty lớn như thế. Ngoài
ra, vì không có quyền tư hữu, người ta không có động lực để sản xuất, nghiên cứu và phát
minh ra các kỹ nghệ và các sản phẩm tân tiến. Trên thực tế, các kế hoạch kinh tế của nhà nước
thường không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Ví dụ, 13 kế hoạch 5 năm của Liên Xô bắt
đầu từ năm 1928 đã đưa đến sự sụp đổ của nền kinh tế Liên Xô và Liên Bang Xô Viết vào năm
1991. Kế hoạch 5 năm đầu tiên của Stalin (1928 - 1933) thiết lập chính sách tập thể hóa nông
nghiệp hầu đẩy mạnh kỹ nghệ hóa và tạo ra các nông trường tập thể. Sự thay đổi đột ngột này
cùng với các cuộc đàn áp của chính phủ đối với nông dân trong lúc thực hiện kế hoạch, đã đưa
đến nạn đói năm 1932, giết chết hàng triệu người.
Vì nhà nước chiếm độc quyền sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ và lợi tức, không có sự
cạnh tranh trong nền kinh tế chỉ huy của cộng sản. Hậu quả của việc không có cạnh tranh gồm
có sự thiếu sáng kiến và canh tân, dẫn đến tình trạng phẩm chất và số lượng của hàng hóa và
dịch vụ trong nền kinh tế chỉ huy thấp hơn phẩm chất và số của lượng hàng hóa và dịch vụ trong
nền kinh tế thị trường tự do. Hơn nữa, dưới nền kinh tế chỉ huy, người ta phải phục vụ nhà nước,
trong khi đó dưới nền kinh tế thị trường tự do, chính phủ được bầu lên để phục vụ cho công ích.
Thế kỷ vừa qua đã cung cấp bằng chứng mạnh mẽ rằng Karl Marx đã sai lầm. Các nền kinh tế
thị trường không đưa đến độc quyền trong mỗi ngành kỹ nghệ như ông khẳng định vì trong các
nước tự do luật pháp được tôn trọng, độc quyền bị nghiêm cấm và giám sát. Đồng thời, tiền
công của người lao động không bị giữ ở mức tối thiểu cố định nhưng đã tăng theo thời gian. Lý
do là vì sự cạnh tranh trên thị trường lao động đã khiến cho các nhà sản xuất tranh nhau và trả
lương cao hơn, đặc biệt là khi năng suất lao động gia tăng và nền kinh tế tăng trưởng.
Rõ ràng nhất, sự thất bại nặng nề của hệ thống kinh tế chỉ huy theo kiểu Liên Xô và tư tưởng
kinh tế của Karl Marx là sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết đã chứng minh sự sai lầm của lý
thuyết Karl Marx. Cũng thế, áp dụng nền kinh tế chỉ huy của cộng sản, Trung cộng đã lâm vào
tình trạng nghèo khổ khiến đất nước sắp sụp đổ. Vì vậy vào năm 1978 Chủ tịch Đặng Tiểu Bình
đã tuyên bố bãi bỏ nền kinh tế cộng sản, chuyển sang nền kinh tế thị trường, chấp nhận quyền tư
hữu của người dân. Theo gót Trung Cộng để tránh tình trạng khốn cùng, vào năm 1986 Việt
Nam bắt đầu chuyển sang một "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa."
Nói tóm lại, ngày nay ngoài Bắc Hàn tất cả các nước cộng sản gồm Nga, Trung cộng, các nước
Đông Âu và Việt Nam đều từ bỏ hệ thống kinh tế chỉ huy của cộng sản và chuyển qua hệ thống
kinh tế thị trường để sống còn*.
Nguyễn Văn Sáng, 58
(*) Trung cộng và Việt Nam theo một hệ thống thị trường lai căn, cái gọi là “Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.” Đây là một đề tài được thảo luận trong một bài viết khác.

MỤC LỤC
-Chúa có chọn Đức Giáo Hoàng không?
-Đức Giáo Hoàng Leo ‘là người lý tưởng để lãnh đạo Giáo Hội vào thời điểm này’
-Tư tưởng kinh tế của Karl Marx
-Tư tưởng kinh tế của Adam Smith
-Chỉ số Dow Jones, Nasdaq và S&P 500
-Tăng trưởng và phát triển kinh tế
-Tầm quan trọng của Tư tưởng và Hê thống kinh tế
-Bàn Về Thiết Hụt Ngân Sách Và Quốc Trái Hoa Kỳ.
-XÃ HỘI
-Judo - từ nhu thuật đến thể thao hiện đại
-Nhật ký của một linh hồn
-Những cách chửa trị dị thường nhất
-12 sự kiện mở đường thời Internet
-Tầm nhìn của một Thiên tài
-Làm thế nào để trở thành một Bác sĩ Y khoa?
-Làm sao để được khỏe mạnh
-Ngả lưng một thoáng bên đường
-Saigon niềm nhớ không tên-Góc kỷ niệm
-Người Mỹ khắc khổ
-Một sáng Chủ nhật
THƠ
Xem lại những bài đã đăng